Đăng Ký Học
Ngày 20/02/2022 10:03:08, lượt xem: 6074
Albert Schweitzer đã từng nhận định rằng: “Điều duy nhất có giá trị trong cuộc đời chính là những dấu ấn của tình yêu mà chúng ta đã để lại phía sau khi ra đi”. Một tác phẩm dù đã xa rất lâu nhưng khi nhắc đến vẫn văng vẳng đâu đó tiếng nói của tình yêu và “Bình Ngô đại cáo” là một tác phẩm như thế. Không những là áng “thiên cổ hùng văn” thấm đẫm nước mắt của Nguyễn Trãi mà “Bình Ngô Đại cáo” còn mang ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập hùng hồn của dân tộc. Được viết sau chiến thắng giặc Minh, bản cáo trạng đã nêu cao tinh thần độc lập dân tộc, tinh thần yêu nước chống giặc ngoại xâm được khắc tạp đến muôn đời.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng dành những lời trân trọng nhất “Nguyễn Trãi là người đầu đội trời Việt Nam, chân đạp đất Việt Nam, tâm hồn lộng gió thời đại...”. Trong hàng ngàn năm qua, Nguyễn Trãi luôn được nhớ đến như một truyền kỳ. Ngoài là một nhà văn Nguyễn Trãi còn được nhớ đến là một nhà thơ vĩ đại, một nhà tư tưởng, nhà chính trị của dân tộc Việt Nam thế kỉ XV. Dưới ngòi bút tài hoa, “Bình Ngô đại cáo” được hoàn thành chỉ sau năm ngày tiễn Vương Thông về nước, đến ngày 17 tháng Chạp năm Đinh Mùi và sau đó được công bố trước toàn nhân dân Đại Việt ta. Thời khắc ấy chính là lúc đánh dấu thiên ca trường hận của đất nước trong thế kỉ XV chấm dứt, thiên ca độc lập dân tộc lại mở ra. Đây được coi như bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam, sau bài thơ thần “Nam quốc sơn hà”. Song, “Bình Ngô đại cáo” không phải chỉ được tiếp nhận chủ yếu như một văn bản hành chính mà còn được đón nhận như một kiệt tác văn chương. Vì thế khúc tráng ca bất diệt ấy lại trở thành một khúc khải hoàn về một kỉ nguyên mới của dân tộc, kỷ nguyên hoàn toàn độc lập, tự do.
Hoài Thanh đã từng nhận định: “Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng cảm với những khát vọng rất người của con người, cảm hứng nhân văn thiên về ngợi ca vẻ đẹp của con người thì cảm hứng nhân đạo là cảm hứng bao trùm”. Một tác phẩm văn học luôn hướng bạn đọc đến những giá trị nhân đạo sau khi tìm hiểu bởi ở bất cứ tác phẩm nào cũng luôn mang một giá trị nhân đạo có thể là sự cảm thông cho những số phận, những cảnh ngộ…và “Bình Ngô đại cáo” là một tác phẩm như thế. Tinh thần nhân văn được Nguyễn Trãi thể hiện trong bài trước hết nằm ở tư tưởng nhân nghĩa của ông, mở đầu tác phẩm ông đã thể hiện sự đấu tranh này là vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Nguyễn Trãi khẳng định nhân nghĩa là một nguyên lí có tính phổ biến, mặc nhiên thừa nhận thời bấy giờ:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Nhìn vào dòng chảy của lịch sử nhân loại thì ta thấy ngay “nhân nghĩa” mà Nguyễn Trãi nêu ở đây là một tiền đề có tính tiên nghiệm bởi tiền đề này có nguồn gốc từ phạm trù nhân nghĩa của Nho giáo, Nhân nghĩa vốn là một tư tưởng đạo Nho, là mối quan hệ giữa người với người dựa trên cơ sở của tình thương và đạo lí. Với bốn chữ “yên dân”, “trừ bạo”, Nguyễn Trãi đã nâng nó lên một tầm cao mới, trở thành một lý tưởng xã hội, một đạo lý dân tộc có giá trị đến muôn đời: việc nhân nghĩa ở đời cốt là lo cho dân được ấm no, giúp cho dân được yên ổn. Nguyễn Trãi đã khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc” là quy luật tất yếu trong mọi thời đại – dân là nòng cốt, là tài sản, là sức mạnh, sinh khí của một quốc gia. “Yên dân”, tức là làm cho cuộc sống của nhân dân được yên ổn, no đủ, hạnh phúc. Nhưng để được “yên dân” trước phải lo “trừ bạo”, có nghĩa phải vì nhân mà dám đứng lên diệt trừ bạo tàn, đánh tan quân xâm lược. Nhận xét về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Đối với Nguyễn Trãi, yêu nước là thương dân, để cứu nước phải dựa vào dân, và cứu nước để cứu dân, đem lại thái bình cho dân, cho mọi người. Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chẳng qua là lòng yêu nước, thương dân: cái nhân cái nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng chống ngoại xâm diệt bạo tàn, vì độc lập của nước, hạnh phúc của dân”. Nguyên lí nhân nghĩa này được coi như bó đuốc lớn của thời đại lúc bấy giờ. Trong nhiều bức thư gửi cho tướng giặc, Nguyễn Trãi luôn khẳng định tư tưởng nhân nghĩa căn cốt, Trong “Thư số 8 - Gửi Phương Chính” Nguyễn Trãi đã từng viết: Thư gửi Phương Chính số 8: “Phàm mưu đồ việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, muốn nên công to, phải lấy nhân nghĩa làm đầu. Phải có nhân nghĩa đầy đủ, thì công việc mới thành”. Bậc anh hùng ấy lo cho dân bằng tất cả tình thương tận sâu nơi đáy lòng. Dân giàu, nước mạnh, dân no đủ, nước thái bình, đây là giấc mơ Nguyễn Trãi luôn khắc khoải suốt cả cuộc đời dẫu cho cuộc đời ấy phải chịu nhiều đắng cay và oan khuất, hơn hết, nó còn là cả một học thuyết nhân sinh ấp ủ đã đến lúc bật ra thành lời. Nếu giấc mơ kia là của bậc đại nhân, thì cái lõi tư tưởng của giấc mơ là của bậc đại trí. Đó là tư tưởng nhân nghĩa đã được Nguyễn Trãi vạch rõ ngay trong hai câu mở đầu “Bình Ngô đại cáo”, một tư tưởng rất tiến bộ, tích cực, phù hợp với tinh thần của thời đại và cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
ĐỌC THÊM NGỮ VĂN 10 | TƯ TƯỞNG NHÂN NGHĨA TRONG “BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO”
Nguyễn Trãi đã đưa đến một tư tưởng đầy nhân văn để từ đó đem đến một khẳng định chân lí độc lập dân tộc. Bằng một giọng điệu hào hùng, tràn đầy khí thế với khẳng định nước Đại Việt là của chúng ta:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Nguyễn Trãi đã rất tinh tế khi đã đưa ra các yếu tố cơ bản để xác định nền độc lập, chủ quyền của dân tộc: cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, nền văn hiến lâu đời. Nếu chỉ đưa vào đơn giản như vậy thì đâu có ý nghĩa, cái hay của áng “thiên cổ hùng văn” là sử dụng hàng loạt từ ngữ: “từ trước”, “vốn xưng”, “đã lâu”, “đã chia”, “cũng khác” để khẳng định quyền độc lập, chủ quyền của dân tộc ta một cách hiển nhiên, vốn có, lâu đời. Bên cạnh đó dân ta còn có bề dày lịch sử riêng, chế độ riêng với “hào kiệt không bao giờ thiếu”. Khí thế khi Nguyễn Trãi hùng hồn tuyên bố chủ quyền đất nước với quân giặc để rồi sau này, chúng ta gặp lại sự tự hào ấy trong thơ văn cách mạng của Nguyễn Đình Thi:
“Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta”
(Đất Nước)
Hay Tố Hữu cũng đã từng viết:
“Mây của ta, trời thắm của ta
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.”
Bên cạnh đó dân ta còn có bề dày lịch sử riêng, chế độ riêng với “hào kiệt không bao giờ thiếu”:
“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Đây là đoạn văn đã chạm khắc vào lịch sử dân tộc những giá trị bất khả xâm phạm về nền độc lập một cách đầy đủ nhất. Ông không chỉ dừng lại ở từ “ta” mà còn đưa ra một quan niệm được đánh giá là đầy đủ nhất lúc bấy giờ về các yếu tố tạo thành một quốc gia độc lập: nước Việt ta có nền văn hiến tự bao đời, có núi sông bờ cõi, ranh giới đã phân định, có phong tục tập quán phong phú, có các triều đại sánh ngang với “Hán, Đường, Tống, Nguyên”, có nhân tài phò vua diệt giặc. So với trước đó, học thuyết về quốc gia, dân tộc của Nguyễn Trãi phát triển cao hơn bởi tính toàn diện và sâu sắc của nó. Toàn diện vì ý thức về dân tộc trong “Nam quốc sơn hà” được xác định dựa trên hai yếu tố: lãnh thổ và chủ quyền còn đến “Đại cáo bình Ngô” ba yếu tố nữa được bổ sung: văn hiến, phong tục tập quán và lịch sử. Sâu sắc vì trong quan niệm về dân tộc, Nguyễn Trãi ý thức được “văn hiến” và “truyền thống lịch sử” mới là yếu tố hạt nhân để xác định dân tộc đó. Vả chăng sự sâu sắc của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở chỗ: điều mà kẻ thù xâm lược luôn tìm cách phủ định (văn hiến nước Nam) thì chính lại là thực tế, tồn tại với sức mạnh chân lý khách quan và đến nay học thuyết đó vẫn còn nguyên giá trị.
Chân lý chủ quyền dân tộc vang lên đầy khí thế và tự hào. Đó chính là nền móng vững trãi, là cơ sở pháp lí, lí luận xác đáng để Nguyễn Trãi tiếp tục lên án những kẻ bạo ngược đã cố ý xâm phạm chủ quyền nước ta, cho nên:
“Lưu cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi
Ô Mã xưa xem xét, chứng cứ còn ghi”
Bằng tài năng của mình Nguyễn Trãi đã sử dụng phép liệt kê, dẫn ra những kết cục của những kẻ xâm lược đi ngược lại với chân lí, tất yếu sẽ chuốc lấy thất bại: Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết tiêu vong, Toa Đô, Ô Mã, kẻ bị giết, kẻ bị bắt. Nguyễn Trãi lấy “chứng cứ còn ghi” để chứng minh cho sức mạnh của chân lý, sức mạnh của tư tưởng “thân dân” đồng thời đó cũng chính là niềm tự hào dân tộc. Lâm Ngũ đường cũng đã từng viết: “Văn chương bất hủ cổ kim đều viết bằng huyết lệ” khi viết về những câu văn liệt kê tội ác của quân giặc đối với ta, Nguyễn Trãi cũng đã đẫm lệ trên những trang văn của mình, sau khi hùng hồn khẳng định Đại Việt là một quốc gia độc lập, bản “tuyên ngôn” Bình Ngô đã đanh thép kết án tội ác của giặc Minh đã gieo rắc tai vạ cho dân ta trải suốt hai mươi năm trời. Từ âm mưu thâm độc đến những hành động man rợ, bạo tàn, trắng trợn mà Nguyễn Trãi đã viết trong căm hờn, uất nghẹn, ông xót xa trước những thảm cảnh mà “quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ” do “bọn gian tà bán nước cầu vinh”, chúng mang theo luận điệu xảo trá phù Trần diệt Hồ, nhằm bịp bợm nhân dân.
Chiến tranh đi qua đã để lại bao đau thương và mất mát. Với những chính sách, thủ đoạn hung bạo của nhà Minh đã khiến nhân dân ta phải rơi vào cùng cực cả về mặt thể chất lẫn tinh thần. Ngay cả tên nước ta cũng bị thay đổi, chia nước ta thành những quận huyện nhỏ. Qua ngòi bút chân thực của mình Nguyễn Trãi đã sử dụng những từ ngữ vô cùng chân thực như “nướng”, “vùi”, “dân đen”, “con đỏ”...nhằm chỉ ra những tội ác mà trời đất không thể dung tha:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Đọc từng câu chữ khiến cả trái tim như uất nghẹn, khi nhìn vào những tội ác mà chúng đã gây ra với dân ta: Chúng coi phụ nữ, trẻ em như một loại hàng hóa. Chúng rút ruột người treo lên cây, nấu thịt người làm dầu, phanh thây phụ nữ có thai, nướng sống người làm trò chơi, chất thây người làm mồ mua vui. Không chỉ có vậy, bọn giặc còn thực hiện một chế độ sưu thuế cống nạp nặng nề để vơ vét của cải, cướp đoạt tài nguyên, sản vật. Chúng phá hoại nhân dân thôi chưa đủ, còn phá hoại cả môi trường sống xung quanh đến nỗi tàn hại cả côn trùng, cây cỏ. Bọn man rợ còn bóc lột đến tàn kiệt sức lao động của người dân “bị đem vào núi đãi cát tìm vàng”, “ bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc”, coi mạng sống con người như cỏ rác mặc cho “cá mập thuồng luồng”, mặc cho “rừng sâu nước độc”. Chúng vơ vét tài nguyên đến tận cùng “vét sản vật”, “bắt chim trả”, “bẫy hươu đen” đến nỗi “chốn chốn lưới chăng”, “nơi nơi cạm đặt”. Giặc Minh quấy nhiễu đến nỗi sản xuất bị đình trệ “tan tác cả nghề canh cửi”, cuộc sống nhân dân bị huỷ hoại không còn lại gì “tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ”, đẩy nhân dân đến bước đường cùng “nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”. Chúng đã hung hăng, ngang ngược xúc phạm đến đạo lí nhân nghĩa của đất trời và lòng người.
Trước những tội ác chồng chất của giặc như vậy, chúng ta chỉ có một con đường là đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi để trừ bạo, yên dân. Xót xa cho cảnh nước mất nhà tan, Lê Lợi – người anh hùng áo vải đất Lam Sơn đã phất cờ khởi nghĩa:
“Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống”
Với tư tưởng nhân nghĩa cao cả, “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo” Nguyễn Trãi đã đưa ra một chân lý: phải giương cao ngọn cờ “nhân nghĩa, an dân”, phải cố gắng đoàn kết lòng dân làm sức mạnh của nước, làm thế nước. Để làm nổi bật giữa nhân nghĩa với hung tàn, giữa chính nghĩa với phi nghĩa, giữa chiến thắng và chiến bại,… Nguyễn Trãi đã sử dụng nghệ thuật tương phản đối lập. Ta với giặc Minh khác nào như mặt trời với bóng tối, như văn minh với man rợ, như tất thắng với thất bại. Ông chủ trương cứu nước bằng sức mạnh của dân, muốn lấy lại được nước phải biết lấy sức dân mà kháng chiến. Sức mạnh nhân nghĩa của nhân dân ta “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều” để làm nên chiến thắng vẻ vang đánh dấu những mốc son chói lọi trong trang vàng sử sách. Những thắng lợi ban đầu đã tạo thanh thế cho nghĩa quân, trở thành nỗi khiếp đảm của kẻ thù:
“Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc âm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu.
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.”
ĐỌC THÊM NGỮ VĂN 10 | PHÂN TÍCH ĐOẠN THƠ TRONG BÀI “PHÚ SÔNG BẠCH ĐẰNG”
Bình Ngô đại cáo đã tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược, ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập, tuyên bố về nên độc lập của dân tộc là áng thiên cổ hùng văn còn mãi giá trị nghìn đời sau của đất nước ta. Không chỉ sâu sắc về nội dung mà còn vẹn toàn về nghệ thuật. Phạm Văn Đồng có nhận định rằng “Văn chương của Nguyễn Trãi đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật, đều hay và đẹp lạ thường”. Bên cạnh giá trị nhân đạo sâu sắc, “Bình Ngô đại cáo” , một nét đặc sắc nữa về nghệ thuật là lời văn giấu hình tượng. “Bình Ngô đại cáo” có ngôn ngữ trang trọng, hình tượng tráng lệ, kỳ vĩ. Các thủ pháp nghệ thuật như so sánh, thậm xưng, cảm thán… được Nguyễn Trãi sử dụng rất đặc sắc gợi cảm kì lạ. Cáo là một trong những thể văn xuôi cổ; cách đặt câu mang tính quy phạm cổ điển. Nguyễn Trãi đã sử dụng biến hóa các kiểu câu tứ tự, bát tự, câu tứ lục, câu song quan, câu cách cú, câu gối hạc, làm cho nhịp văn lúc có sóng, lúc duỗi dài, lúc nén xuống, lúc dồn dập. Khí văn mạnh mẽ, mang âm điệu anh hùng ca. Có khi là các thi liệu văn liệu cổ đi vào bài cáo một cách thanh thoát hấp dẫn như: cần trúc ngọn cờ, nước sông chén rượu, trúc chẻ tro bay, sạch không kình ngạc… Mở đầu là hai chữ “yên dân”, kết thúc là” thái bình”, “chiến thắng”, là “thanh bình”, là “duy tân” điểu đó đã thể hiện tính nhất khí, nhất quân của Bình Ngô đại cáo. Chỉ nói về phương diện nghệ thuật, “Bình Ngô đại cáo” xứng đáng là bài ca thắng trận, khúc hát hòa bình của ông cha lưu mãi ngàn thu. Trong tác phẩm này, tác giả đã kết hợp một cách uyển chuyển giữa tính chân xác lịch sử với chất sử thi anh hùng ca qua lối văn biền ngẫu mẫu mực của một ngọn bút tài hoa uyên thâm Hán học.
Xuân Diệu đã từng viết: "Trước Lê Lợi, đã từng có chiến thắng oanh liệt đuổi sạch quân Nguyên xâm lược ở thời nhà Trần, sau thời Lê Lợi, sẽ có chiến thắng thần tốc của vua Quang Trung đánh đuổi 20 vạn quân Thanh xâm lược, nhưng trong văn học sử chỉ có một áng văn Bình Ngô đại cáo, bởi các lẽ: không có ba Nguyễn Trãi để viết ba áng văn khải hoàn mà lịch sử đòi hỏi ở ba thời điểm, mà chỉ có một Nguyễn Trãi cụ thể, hiệu Ức Trai, ở đầu triều Lê cùng với tài thao lược kinh bang tế thế, đã có cái thiên tài viết văn". “Bình Ngô đại cáo” vốn là một văn kiện lịch sử và rồi tác phẩm còn được coi đó là một áng "thiên cổ hùng văn", áng văn chính luận bất hủ. Nhưng dù ở giá trị nào cũng không thể phủ nhận những đóng góp lớn lao của nó vào hệ tư tưởng độc lập dân tộc mang tầm vóc quốc tế. Tầm vóc lớn lao ấy của nó một lần nữa khẳng định đây là một bản tuyên ngôn độc lập hùng hồn nhưng thấm đẫm nước mắt.
Để tham khảo thêm nhiều bài viết hay, và chạy nước rút hiệu quả, hãy đăng ký sở hữu các đầu sách và đăng ký khoá học của HVCH nhé!
Link đặt sách: https://bit.ly/2ZPn5bZ
Link đăng kí khóa VIP 10: http://bit.ly/khoahocvan10
Cập nhật thêm những bài viết hay tại các kênh truyền thông của HVCH:
Fanpage: Học văn chị Hiên
Youtube: Học văn chị Hiên - Youtube
IG: Học văn chị Hiên
Tiktok: Học văn chị Hiên
Tin liên quan